Thursday, 31 March 2016

Lịch sử thương hiệu ACCURIST

Logo

Năm 1947,hãng đồng hồ ACCURIST được thành lập bởi ông Asher Loftus và vợ của ông bà Rebecca, ở Clerkenwell, London. Họ cảm thấy rằng có một khoảng trống trong thị trường đồng hồ Anh, cho một thương hiệu kết hợp Thụy Sĩ làm bộ phận chất lượng, với một phong cách đặc trưng và giá cả cạnh tranh, đồng thời cung cấp đảm bảo hơn. Để đạt được điều đó, vào năm 1968 họ đã mở một văn phòng của Thụy Sĩ tại La Chaux de Fonds, nhằm quản lý việc sản xuất chặt chẽ hơn.

Thương hiệu đồng hồ Accurist là một trong những nhà sản xuất đầu đưa thời trang vào ngành công nghiệp đồng hồ. Năm 1967, anh trai của A-se, Richard, đưa ra các Old Englandcollection, mà sớm được mặc bởi những người nổi tiếng như Twiggy, The Beatles andthe chúa Anne. Để phù hợp với thời trang của thời gian, bộ sưu tập này là truyền thống như nó đã được đặc trưng bởi các chữ số quá khổ, màu sắc tươi sáng và thiết kế hiện đại.
Một ví dụ về hai đồng hồ Accurist

Vào đầu những năm 1970, sau khi phát minh của công nghệ thạch anh kỹ thuật số, Accurist Đồng hồ đã giới thiệu một bộ sưu tập sử dụng các phong trào thạch anh kỹ thuật số. Dòng sản phẩm này đã quá tiên tiến ở giai đoạn đó đã trở thành chiếc đồng hồ chính thức cho các phi công của chiếc máy bay mới launchedConcorde

Năm 1983, công ty quyết định chuyển sản xuất từ ​​Thụy Sĩ đến Nhật Bản, để tận dụng lợi thế của việc cắt-cạnh công nghệ Nhật Bản đã bùng nổ vào thời điểm đó. Nó được chứng minh là một bước đi chiến lược, như sau đó Accurist Đồng hồ được hưởng một sự gia tăng 500% trong các doanh nghiệp Anh của họ.

Đến năm 1993, Accurist Đồng hồ đã trở thành thương hiệu lớn nhất tại Anh về giá trị và bắt đầu mở rộng sang các thị trường quốc tế.
Một Chiếc trong bộ siêu tập ACCURIST ACCU.2

Ngay trước khi thiên niên kỷ mới, năm 1999, Accurist Đồng hồ tung ra Bộ sưu tập Accu.2 của họ, nhắm mục tiêu người tiêu dùng chủ yếu là trẻ. Mạnh quảng cáo của chiến dịch "Không hẹn giờ cũ bình thường", bộ sưu tập đã trở thành ngay một trong những phạm vi thành công nhất của công ty, chẳng hạn như sáng hơn 1500 cửa hàng và các cửa hàng bán lẻ trên khắp nước Anh.

Accurist Đồng hồ là trách nhiệm phân phối Anh của các thương hiệu khác nhau. Từ năm 2007, công ty là nhà phân phối chính thức Vương quốc Anh cho Versace Đồng hồ

Accurist Xem kinh doanh đã được mua bởi Thời gian Sản phẩm UK Ltd vào năm 2014. Thời gian Sản phẩm cũng sở hữu các thương hiệu của Sekonda, Seksy, và Limit đồng hồ.
Quảng cáo và tài trợ đã luôn luôn là một phần quan trọng trong chiến lược tiếp thị Accurist Đồng hồ. Trong những năm 1960, Accurist Đồng tài trợ các chương trình truyền hình nổi tiếng nhất ở Anh, Sunday Night tại London Palladium, cung cấp các công ty tiếp xúc với nước.

Trong những năm 1970, John Cleese đóng vai chính trong một loạt các điểm truyền hình, cái gọi là "Accur-mắt cá chân, cổ tay Accu-" chiến dịch quảng cáo, bán đồng hồ ở vị trí bất thường khác nhau. chiến dịch đó đã được bình chọn là một trong top mười thương mại của thế giới bởi chương trình truyền hình Mỹ Johnny Carson. Trong tháng 12 năm 2009, John Cleese đã đồng ý để cho vay bằng giọng nói của mình khi thương mại tương tự, nhưng với chiếc đồng hồ hiện đại, đã được tái phát động.



Chiếc two timer

các chiến dịch quan trọng khác của Accurist Đồng hồ bao gồm các "máy Sec của" và "Hai Timer".

Năm 1998 Accurist đưa ra sáng tạo 'Đặt một số trọng lượng trên' của chiến dịch để thúc đẩy phạm vi của các đồng hồ bạc rắn. Các chiến dịch thiết lập về làm nổi bật sự thịnh ngành công nghiệp thời trang của việc sử dụng mô hình không tự nhiên mỏng, kích thích tranh luận công khai về sự nguy hiểm của việc sử dụng hình ảnh như vậy. Một đặc biệt bắt giữ hình ảnh của một mô hình siêu mỏng với chú thích "Đặt một số trọng lượng trên 'đã thành công trong việc thu hút sự chú ý của công chúng về vấn đề này, bản vẽ bình luận từ các nhóm phụ nữ, các tổ chức y tế và các Tiêu chuẩn Quảng cáo Authority

Năm 2006, Accurist Đồng hồ đã trở thành thương hiệu đầu tiên ở Anh được đồng đặc trưng trong chiến dịch quảng cáo theEnglish đội bóng đá.

Trong năm 2010, công ty đẩy mạnh việc Charmed bởi bộ sưu tập Accurist, sử dụng in ấn và truyền hình quảng cáo. Những mẩu quảng cáo in ấn được đưa vào nhiều tạp chí như Grazia và Marie Claire. Các chiến dịch truyền hình đã được hiển thị onLiving truyền hình và trên 500 màn hình của 50 trung tâm mua sắm Vương quốc Anh. Ý tưởng đằng sau những quảng cáo đã cho thấy rằng phụ nữ có thể sử dụng hạt khác nhau bằng cách sử dụng đồng hồ như nhau và hoàn toàn thay đổi hình thức của nó. Chiến dịch bắt đầu chạy trong tháng 9 năm 2010, nhưng trong tháng mười một và tháng mười hai của năm đó, sự xuất hiện là thường xuyên hơn.

The Clock Nói đến Anh vào ngày 24 Tháng 7 năm 1936, 9 năm sau khi nó lần đầu tiên được giới thiệu tại Mỹ. Người gọi đã được chào đón bằng cụm từ "Tại đột quỵ thứ ba thời gian sẽ được ...". Dịch vụ này đã nhận được 13 triệu cuộc gọi vào cuối năm đầu tiên của mình

Vào tháng Ba năm 1986, Accurist Đồng hồ đã trở thành tổ chức đầu tiên tài trợ cho BT Phát biểu Clock đã nhận được 30 triệu cuộc gọi mỗi năm. Những lời chào ghi nhận thay đổi để "Tại đột quỵ thứ ba, thời gian tài trợ bởi Accurist, sẽ được ...". Brian Cobby, đã được lựa chọn để cho vay bằng giọng nói của mình trong năm tài trợ và ông là người nam đầu tiên được ghi nhận cho dịch vụ này. Công ty sử dụng khẩu hiệu "Accurist- tiêu chuẩn mà tất cả các đồng hồ được thiết lập", hỗ trợ uy tín và chất lượng của họ. Accurist Đồng hồ đã quyết định ngừng tài trợ trong năm 2008, do sự thay đổi trong cách mọi người đọc và giữ thời gian. Họ công bố sự ra mắt của trang web của Anh thời gian thực
Vào mùa thu năm 2008, sau khi Accurist Đồng hồ quyết định kết thúc tài trợ của mình cho đồng hồ nói, họ đưa ra các "Anh Real Time" trang web. Trang web này là phiên bản trực tuyến của Accurist của Clock Phát biểu sử dụng video clip người dân Anh nói thời gian hơn 13.000 video clip được ghi lại. [4] [18] Vào tháng năm 2015, trang web không còn hoạt động.

Đài thiên văn Hoàng gia Greenwich, Millennium Countdown và Bảo tàng Hàng hải CollectionEdit

Năm 1997, Accurist Đồng hồ bắt đầu tài trợ cho Đài thiên văn Hoàng gia ở Greenwich, London, là thương hiệu đầu tiên và duy nhất được liên kết với nó.Accurist Đồng hồ tạo ra một đồng hồ nguyên tử, để đếm ngược 1000 ngày cuối cùng của thiên niên kỷ mới , được đặt trên Meridian và được kiểm soát bởi tám vệ tinh, cho thấy ngày, giờ, phút giây, phần mười giây và phần trăm của giây cho đến khi thiên niên kỷ mới. Accurist Đồng hồ đã ngay lập tức kết hợp với Đài quan sát Hoàng gia và được quảng bá trên khắp thế giới, như đã có một sự kiện lớn tại Greenwich để chào mừng thiên niên kỷ mới. Accurist Đồng hồ đã lợi dụng mối quan hệ này và bắt đầu sử dụng khẩu hiệu "Accurist. Các tiêu chuẩn mà tất cả các đồng hồ được thiết lập" và "Accurist Mean Time". Đồng thời, công ty đưa ra một loạt các bản sao Accurist Thiên niên kỷ đếm ngược Đồng hồ, trong một quy mô trên toàn thế giới. Năm 2003, Accurist Đồng hồ củng cố các thỏa thuận với Đài thiên văn Hoàng gia Greenwich và sản xuất một bộ sưu tập đồng hồ bản sao từ Bảo tàng Hàng hải Quốc gia và Đài quan sát riêng của mình.

AwardsEdit

thương mại "Accur-mắt cá chân, Accu-cổ tay" của công ty, với các diễn viên John Cleese, đã được trao giải thưởng quảng cáo Palme d'Or vào những năm 1970.

Năm 1986, Accurist Đồng hồ đã được trao bởi Hiệp hội quốc gia của Goldsmiths đầu tiên bao giờ "Giải thưởng Xuất sắc", để ghi nhận những đóng góp và ảnh hưởng của họ tại Anh theo dõi thị trường.

Năm 1997 Accurist Đồng hồ đoạt "Volume nhãn hiệu đồng hồ của năm", giải thưởng và năm 2001, họ đã đạt được những "dịch vụ khách hàng", giải thưởng tại lễ trao giải Đồ trang sức của Anh, cho cam kết của họ và tiếp tục hỗ trợ cho khách hàng của họ
~coppy~

Tuesday, 29 March 2016

Lịch sử thương hiệu hermès

Từ một cửa hàng nhỏ chuyên sản xuất yên cương thời trang cho… ngựa, công ty gia đình Hermès sau 2 thế kỷ đã trở thành một trong những hãng thời trang cao cấp và lâu đời nhất thế giới.

Chất quý tộc thuần Pháp của Hermès làm người ta quên mất gia tộc này thực chất là dân Đức di cư.

Người Đức tiến vào "Kinh đô ánh sáng"

Hermès giành được giải thưởng đầu tiên tại Triển lãm Toàn cầu danh giá (Exposition Universelle) 1855 ở Paris, và đến Exposition 1867, ông Thierry được vinh danh huy chương hạng nhất dành riêng cho cá nhân.

Các tín đồ Tin lành trong nhà Hermès đến Pháp định cư vào năm 1828. Mười năm sau đó, ông Thierry Hermès khởi đầu công ty gia đình với nghề làm yên cương trong khu phố Grands Boulevards, chuyên sản xuất các dây cương thuộc da tốt nhất cho xe ngựa phục vụ giới quý tộc.


Từ yên ngựa đến thời trang xa xỉ bậc nhất thế giới, gia tộc gốc Đức Hermès xây dựng đế chế kinh doanh tại đất Pháp - Ảnh: Internet

Các khách hàng của Thierry đều là những quý ông phong cách và có "máu mặt" ở Pháp, hay người thuộc dòng tộc Hoàng gia châu Âu, như Napoléon III và Hoàng hậu Eugénie.

Không lâu sau triển lãm Exposition 1867, ông Thierry trao quyền điều hành công ty lại cho con trai Charles-Émile.

Vị chủ tịch mới đánh dấu thêm một cột mốc trong lịch sử Hermès khi quyết định chuyển cửa hàng về trung tâm sang trọng nhất kinh đô ánh sáng, tại số 24 Rue Faubourg Saint-Honoré, kế Điện Elysée - nay vẫn tự hào cửa hàng đầu tàu của đế chế Hermès.

Với sự trợ giúp của 2 con trai - Adolphe và Émile-Maurice, ông Charles-Émile trình làng một loạt sản phẩm yên ngựa mới và mở rộng bán lẻ cho tầng lớp thượng lưu khắp thế giới, từ Bắc Mỹ, đến Nga và châu Á.

Thế hệ thứ III của Hermès - Émile-Maurice gây tiếng vang khi trở thành người được độc quyền sử dụng phát minh "dây kéo" trong các sản phẩm da và quần áo của hãng, và là người đầu tiên đưa công nghệ này vào Pháp.

Bí quyết từ những chiếc khăn choàng

Trong 20 năm điều hành, Émile-Maurice (không có con trai nối dõi) đã "tranh thủ" dạy cho 3 người con rể Robert Dumas, Jean-René Guerrand và Francis Puech trở thành các đối tác kinh doanh của Hermès.


Hermès chỉ thực sự tỏa sáng khi bước sang tuổi 31, với việc giới thiệu mẫu khăn vuông 90 phân tay Jeu des Ombinus et Dames Blanches làm mưa làm gió sau này.

Hãng cẩn thận phụ trách mọi khâu sản xuất, từ mua lụa thô Trung Quốc đến quay sợi, dệt ra chất liệu may khăn dày và nặng gấp đôi các mẫu khăn có sẵn tại thời điểm đó.

Các nhà thiết kế đặc biệt của Hermès khi đó chỉ làm một việc duy nhất là sáng tạo ra các mẫu họa tiết họa tiết mới - là cảnh phụ nữ đua ngựa, đánh golf.

Phải mất nhiều năm sau đó, Hermès mới hoàn thiện được các lưới in trích xuất từ thực vật. Mỗi màu sắc thêm vào khăn đòi hỏi 1 tháng sấy khô trước khi in màu khác.

Do đó, một chiếc khăn 40 màu tinh xảo nhất cần đến 3 năm mới hoàn tất. Đáp lại, sản phẩm này nhanh chóng trở thành phụ kiện không thể thiếu đại diện cho phong cách quý tộc nước Pháp. Đến nay, Hermès đã xây dựng được bảng palette gồm 200 nghìn màu!

Trong lịch sử tồn tại của mình, Hermès cũng có thời gian hợp tác với bộ lạc Tuareg để sản xuất một dòng trang sức bạc, vì thế người ta có thể bắt gặp các họa tiết truyền thống du mục của sa mạc Sahara trên một số sản phẩm của Hermès, đặc biệt là trên các mẫu khăn lụa.


Bóng hồng nước Anh Jane Birkin - “nàng thơ” của dòng túi Hermès Birkin cùng chiếc túi Birkin có 1 không 2 với chuỗi hạt lo âu và bùa may mắn.

Những tín đồ trung thành có tiếng của Hermès còn có Nữ hoàng Elizabeth II - bà từng chụp ảnh chân dung cùng khăn choàng Hermès in trên tem thư những năm 50, Grace Kelly, Audrey Hepbur, Jackie O hay Sharon Stone từng trưng dụng chiếc khăn Hermès trong bộ phim Basic Instinct.

Ngay cả những tên tuổi mới hơn như Sharon Stone, Sarah Jessica Parker, Hillary Clinton, Mariah Carey, Madonna, Oprah Winfrey cũng đặc biệt yêu thích khăn choàng của hãng.

Sau khi Émile-Maurice qua đời năm 1951, con rể Robert Dumas-Hermès trở thành Chủ tịch đầu tiên không thuộc gia tộc và đặc biệt quan tâm phát triển dòng sản phẩm khăn choàng.

Đến năm 1978, ông trao lại quyền điều hành cho con trai Jean-Louis - người đem lại doanh thu lớn cho hãng trong những năm 1990 nhờ kết hợp với nhà thiết kế Jean-Louis để cho ra đời những sản phẩm lạ, như áo jacket dành cho biker hay quần jeans da đà điểu.

Hermès còn nổi danh với các bộ sưu tập túi xách xa xỉ. Để xứng tầm với tiêu chuẩn sang trọng, hãng không sử dụng một dây chuyền lắp ráp, mà mỗi sản phẩm đều được các nghệ nhân bậc thầy chăm chút toàn bộ.


Với phương pháp sản xuất thâm dụng lao động, cùng với việc tận dụng các chất liệu hiếm có, đắt đỏ, một túi da độc đáo đòi hỏi 24 giờ tác tạo thủ công.

Ví dụ như một chiếc túi Kelly cần 18 giờ làm việc liên tục của duy nhất 1 thợ thủ công tay nghề cao. Chất liệu da lạ Hermès trưng dụng gồm da thằn lằn Malaysia, cá sấu Florida, bò Pakistan, cá sấu Úc, hay đà điểu, dê và bò từ khắp nơi trên thế giới.

Ngày nay, dòng sản phẩm đặc trưng nhất của hãng là túi Hermès Kelly (đặt theo tên của Grace Kelly), túi Hermès Birkin (vinh danh Jane Birkin) và túi đeo vai Constance - những sản phẩm luôn có danh sách khách hàng chờ đợi xếp dài.

Victoria Beckham là "fan ruột" của dòng túi Birkin khi sở hữu bộ sưu tập có giá trị đồn đại lên đến 1,5 triệu bảng Anh. Hay "chịu chơi" như Lady Gaga sắm hẳn cho mình chiếc túi Birkin thiết kế riêng với họa tiết chữ Nhật cách điệu.

"Bóng hồng" nước Anh Jane Birkin - chủ nhân tinh thần của dòng túi Birkin huyền thoại - cũng sở hữu một chiếc túi Birkin có 1 không 2 với chuỗi hạt lo âu và bùa may mắn.
~coppy~

Lịch sử thương hiệu JOY

Henri Alméras huyền thoại nước hoa của xứ Grasse, chăm chăm nhìn nhà thiết kế Jean Patou và người bạn tâm giao “mũm mĩm” của mình, bà Elsa Maxwell - một nhà báo, nhà văn nổi tiếng của Mỹ.

Đó là năm 1930 khi cặp đôi đến miền Nam nước Pháp để tìm kiếm một loại nước hoa mà có thể giúp cứu vãn vương triều của Patou giữa cuộc đại suy thoái những năm 30. Patou và Maxwell đã dành hai ngày để ngửi tất cả những loại mùi hương trong xưởng Alméras nhưng chẳng thứ gì làm họ hài lòng cả.

Rồi, cầm trên tay lọ cuối cùng và đưa cho Maxwell, Alméras nói “nếu hai người không thích cái này nữa, có lẽ tôi sẽ về quê chăn dê”


Henri Alméras

Patou thích mùi hương của chiếc lọ nhỏ, rất thích. Nhưng Alméras lại nói “anh không thể bán nó được, bởi vì giá sẽ đắt lắm”. Quả thực loại nước hoa mà Alméras nói đến không hề giống như các loại nước hoa khác ông đã từng làm. Thứ mùi hương này là kết tinh của hàng ngàn bông hoa và tinh dầu quý.

Nhưng thay vì băn khoăn như Patou, Maxwell lại nhìn ra một cơ hội kinh doanh vô cùng lớn ở lọ nước hoa đắt đỏ này. Bà nói “ Đó là một trong những chiến lược của chúng tôi. Chúng tôi sẽ quảng bá nó trở thành loại nước hoa đắt giá nhất trên thế giới”.

Và cứ như thế sau gần một thế kỷ (85 năm), những lọ nước hoa mang tên Joy-niềm vui của thương hiệu Jean Patou lần lượt được ra đời. Không nhiều người biết rằng, để làm ra được một lọ nước hoa nhỏ xíu 30ml, người ta đã phải chọn lựa vô cùng tỉ mỉ 336 bông hồng và 10.600 bông hoa nhài thơm ngát cùng một số loại hoa khác như Michelia Alba và Tuberose.


Jean Patou - được coi là người đàn ông lịch lãm nhất Châu Âu

Và cũng để có đủ hàng ngàn bông hoa làm tinh túy cho những siêu phẩm đắt tiền ấy, thương hiệu đã phải dốc không ít công sức để tìm kiếm và thoả thuận với những người trồng hoa trên đất Pháp.

Chỉ riêng mỗi pound hoa nhài tươi được hái bằng tay ở Grasse đã có giá lên tới 43.000 đô la thì bạn có thể hiểu tại sao mỗi chai nước hoa lại đắt đến vậy. “Đó không phải là loại nước hoa đắt tiền nhất, nhưng là loại nước hoa tuyệt vời nhất từng được sản xuất và chiến lược marketing thành công nhất”, chuyên gia nước hoa Marian Bendeth giải thích.

Quả thực dù không phải là sản phẩm đi tiên phong trong ý tưởng kết hợp giữa thời trang và nước hoa, nhưng Joy chính là một trong những điển hình thành công nhất từng được áp dụng.

Khi ngay cả những người phụ nữ nổi tiếng nhất của Mỹ cũng đã phải cắt bớt ngân sách cho việc mua sắm quần áo do ảnh hưởng của thời kỳ đại suy thoái những năm 1930, Patou và Maxwell đã mạnh bạo tặng họ những lọ nước hoa Joy quý giá để quảng bá cho sản phẩm của mình.



Họ nói, nếu bạn không đủ tiền để mua quần áo của chúng tôi, chúng tôi biết bạn vẫn muốn thứ gì đó có thể làm bạn hài lòng”. Vào năm 1930, Patou đã cho xuất xưởng 250 lọ nước hoa Joy đầu tiên ở Mỹ, mà mỗi lọ dung lượng 0,5 ounce vào thời điểm đó có giá khoảng 350 USD .

Đã hơn 85 năm kể từ khi chào đời và 80 năm kể từ khi cha đẻ của Joy qua đời, nhưng hương thơm của chai nước hoa Niềm vui vẫn còn đó, nồng nàn và quyến rũ chưa chưa bao giờ biết đến sự phai nhạt của thời gian.

Năm 2000, Joy đã đánh bại chai nước hoa Chanel No.5 để vươn lên dành giải thưởng danh giá “nước hoa của thế kỷ 20” được Hiệp hội Nước hoa Fifi bình chọn và trao tặng.

Vậy là, đổi lại cho “kế hoạch” làm người chăn dê không thành, Henri Alméras không những đã trở thành người hùng huyền thoại của một trong những thương hiệu nổi tiếng nhất hành tinh mà còn góp phần làm dày thêm lịch sử những nghệ nhân sáng tạo nước hoa tài ba nhất của Pháp.
~coppy~

Lịch sử tập đoàn sam sung

Có trụ sở ở Seoul, Samsung là một trong những tập đoàn lớn nhất Hàn Quốc. Từ khi thành lập năm 1938 đến nay, tập đoàn này đã làm nên nhiều kỳ tích.

Những nhà sáng lập đứng sau các tập đoàn (chaebol) của Hàn Quốc đều là những kẻ có tham vọng rất lớn. Hãy nhìn vào những cái tên mà họ đặt cho doanh nghiệp của mình. Daewoo có nghĩa là “vũ trụ lớn”, Huyndai có nghĩa là “kỷ nguyên hiện đại” trong khi Samsung là “ba ngôi sao”. Cái tên Samsung ẩn chứa mong ước về một tập đoàn đa quốc gia khổng lồ hùng mạnh.

Có trụ sở ở Seoul, Samsung là một trong những tập đoàn lớn nhất Hàn Quốc. Từ khi thành lập năm 1938 đến nay, tập đoàn này đã làm nên nhiều kỳ tích. Samsung có tầm ảnh hưởng to lớn đến nhiều mặt trong đời sống kinh tế, chính trị và văn hóa của Hàn Quốc. Đây là động lực chính đứng phía sau “Kỳ tích sông Hàn” làm thay đổi toàn bộ nền kinh tế Hàn Quốc. Các công ty con của Samsung sản xuất ra 20% tổng lượng hàng hóa xuất khẩu của cả nước, trong khi doanh thu của tập đoàn tương đương 17% GDP của Hàn Quốc.

Tính đến hết năm 2013, Samsung có mặt ở tổng cộng 90 quốc gia với 673 văn phòng trên toàn cầu.
Một số chỉ tiêu tài chính của Samsung trong giai đoạn 2009 - 2013 (Nguồn: Samsung website)

Đến nay, “món” cay nhất trong “bát kim chi” Samsung là Samsung Electronics – nhà sản xuất điện thoại thông minh hàng đầu thế giới. 2/3 doanh thu của hãng đến từ mảng sản xuất điện thoại thông minh, chip bán dẫn và các linh kiện điện tử khác. Tuy nhiên, trong mạng lưới của Samsung là rất nhiều các công ty con hoạt động trong nhiều lĩnh vực, hầu hết trong số chúng mang thương hiệu Samsung.


Logo của Samsung qua các thời kỳ

Năm 1938, Lee Byung-chull, con trai của một địa chủ giàu có, thành lập một công ty chuyên xuất khẩu rau quả và làm mì tôm. Trong số các mặt hàng Samsung Sanghoe kinh doanh có cả cá khô.


10 năm sau đó, tức năm 1948, Samsung Corp chính thức ra đời, trước khi mở rộng hoạt động kinh doanh sang các lĩnh vực dệt may, tinh luyện đường và vận tải.

Trong những năm 1950, Samsung mở rộng sang nhiều lĩnh vực khác như trung tâm mua sắm, báo chí với tờ nhật báo Joongang Ilbo, ngành đóng tàu, hóa chất và cả chứng khoán.

Đến năm 1969, mảng được biết đến nhiều nhất của Samsung là công ty điện tử Samsung Electronics được thành lập. Nó sản xuất chiếc tivi đen trắng đầu tiên vào năm 1972 và sau đó trong suốt những năm 1970 mở rộng ra các sản phẩm như tủ lạnh, máy giặt và tivi màu.


Năm 1977, Samsung thâu tóm một công ty sản xuất chip của Hàn Quốc, đặt nền móng cho quá trình lớn mạnh thành nhà sản xuất chip nhớ hàng đầu thế giới.

Năm 1983, Samsung Electronics bắt đầu sản xuất máy tính.

4 năm sau, nhà sáng lập Lee Byung-chull qua đời. Con trai thứ 3 của ông là Lee Kun-hee lên nắm quyền và trở thành Chủ tịch của tập đoàn. Ông đã thay đổi trọng tâm kinh doanh của Samsung từ một công ty sản xuất các sản phẩm đa dạng nhưng chủ yếu mang lại giá trị thấp sang những sản phẩm có giá trị thặng dư cao hơn. Samsung hướng đến mục tiêu sử dụng các công nghệ tiên tiến và các sản phẩm hạng sang để xây dựng thương hiệu.


Năm 1992, Samsung trở thành nhà sản xuất chip nhớ lớn nhất thế giới. Năm 1994 Samsung phát triển loại chip DRAM có dung lượng 256 megabit đầu tiên trên thế giới.

Năm 1995, Lee Kun-hee bắt đầu xây dựng Samsung Motor, đồng thời mở nhà máy sản xuất LCD cũng như những màn hình tinh thể lỏng đầu tiên.

Năm 1997, Samsung gia nhập thị trường điện thoại di động.


Năm 1998, Hàn Quốc rơi vào khủng hoảng tài chính châu Á. Samsung Motor được bán cho Renault với mức giá rất thấp, Samsung phải gánh một khoản lỗ lớn từ Samsung Motor. Tuy nhiên, đây cũng là phần duy nhất bị ảnh hưởng. Samsung gần như không bị suy suyển bởi cuộc khủng hoảng này. Cũng trong năm này, Samsung Electronics trở thành nhà sản xuất LCD hàng đầu thế giới.

Năm 2005, Samsung vượt qua Sony trở thành thương hiệu điện tử được người tiêu dùng thế giới ưa chuộng nhất.

Không phải chặng đường phát triển của Samsung được trải toàn hoa hồng. Giông tố ập đến vào năm 2008, khi Lee Kun-hee rời khỏi ghế Chủ tịch sau khi bị buộc tội trốn thuế. Ông cũng bị cho là đã tìm cách chuyển giao quyền sở hữu cổ phần cho con cái một cách bất hợp pháp. Mất 1 năm sau, ông được Tổng thống ân xá và tháng 3/2010 Lee trở lại làm Chủ tịch Samsung.

Tháng 12/2010, Jay Y. Lee, người con trai duy nhất của Lee Kun-hee và được coi là người kế thừa “ngai vàng” ở Samsung, được bổ nhiệm là một trong các Chủ tịch của Samsung Electronics.

Hôm nay (30/7), Samsung Electronics vừa báo cáo kết quả kinh doanh quý II với mức 4,9 tỷ USD, giảm quý thứ 5 liên tiếp. Đã có thời cuộc chiến trên thị trường điện thoại thông minh giữa Samsung và Apple trở nên bất phân thắng bại, nhưng rõ ràng giờ đây Apple đã tỏ ra vượt trội. Samsung cũng đang đứng trước cuộc chuyển giao quyền lực không hề suôn sẻ với những mâu thuẫn tranh giành giữa ba người con cả Lee Kun-hee. Điều gì sẽ xảy ra tiếp theo với Samsung và liệu "ba ngôi sao" có thể giữ vững vị trí của mình trong nền kinh tế Hàn Quốc hay không? Chỉ có thời gian sẽ cho chúng ta câu trả lời.
~coppy~

Monday, 28 March 2016

Lịch sử thương hiệu HIKE

51 năm qua, nhà đồng sáng lập Nike Phil Knight đã tạo dựng thương hiệu từ ý tưởng khi học cao học thành một trong những công ty lớn nhất thế giới.

Với tài sản 21,6 tỷ USD, Phil Knight cũng là một trong những tỷ phú tự thân giàu nhất thế giới. Cho dù ông có thể nghỉ hưu và không đảm nhiệm vị trí chủ tịch Nike trong năm nay, song di sản của ông sẽ còn tiếp tục đồng hàng cùng thương hiệu.

Phil Knight sinh ngày 24/2/1938. Ông học Đại học Oregon và tốt nghiệp năm 1959 với tấm bằng cử nhân báo chí. Sau 1 năm phục vụ trong quân đội, ông quay trở lại học tiếp và lấy bằng MBA tại trường Kinh doanh Stanford.


Nhà sáng lập Nike Phil Knight phát biểu trước trận đấu giữa Oregon Ducks-USC Trojans tại lễ khai mạc Matthew Knight Arena hôm 13/1/2011 tại Eugene, Oregon.

Knight khởi nghiệp với ý tưởng về Blue Ribbon Sports (BRS) - công ty tiền thân của Nike - khi còn học tại Stanford. Ông hợp tác với huấn luyện viên môn điền kinh tại Oregon, Bill Bowerman, và mỗi người góp 500 USD vào công ty.


"" style="box-sizing: border-box; border: 0px; vertical-align: bottom;">

 Chuyên mục Strategy Chi tiếtTỷ phú Phil Knight tạo dựng và đưa Nike lên đỉnh cao như thế nào?  Lưu

 16/10/2015

 840 lượt xem

 0 thảo luận


  
inShare

51 năm qua, nhà đồng sáng lập Nike Phil Knight đã tạo dựng thương hiệu từ ý tưởng khi học cao học thành một trong những công ty lớn nhất thế giới.

Với tài sản 21,6 tỷ USD, Phil Knight cũng là một trong những tỷ phú tự thân giàu nhất thế giới. Cho dù ông có thể nghỉ hưu và không đảm nhiệm vị trí chủ tịch Nike trong năm nay, song di sản của ông sẽ còn tiếp tục đồng hàng cùng thương hiệu.

Phil Knight sinh ngày 24/2/1938. Ông học Đại học Oregon và tốt nghiệp năm 1959 với tấm bằng cử nhân báo chí. Sau 1 năm phục vụ trong quân đội, ông quay trở lại học tiếp và lấy bằng MBA tại trường Kinh doanh Stanford.

Nhà sáng lập Nike Phil Knight phát biểu trước trận đấu giữa Oregon Ducks-USC Trojans tại lễ khai mạc Matthew Knight Arena hôm 13/1/2011 tại Eugene, Oregon.

Knight khởi nghiệp với ý tưởng về Blue Ribbon Sports (BRS) - công ty tiền thân của Nike - khi còn học tại Stanford. Ông hợp tác với huấn luyện viên môn điền kinh tại Oregon, Bill Bowerman, và mỗi người góp 500 USD vào công ty.

Nhà đồng sáng lập Nike Bowerman.

Chiến lược của BRS là nhập khẩu giày sneaker của Nhật có tên gọi Onitsuka Tiger và bán lại với giá cao hơn tại Mỹ để kiếm lời. Khi Bowerman có những thiết kế riêng của ông về cái trở thành đế giày cao su đặc trưng của nhãn hiệu năm 1971, BRS có mặt tại thị trường châu Á và sản xuất giày tại đây để có giá thành rẻ hơn nhằm cạnh tranh với các đối thu như Adidas - cũng chuyển hoạt động sản xuất ra ngoài nước Đức.


Đôi giày Onitsuka Tigers.

Khi công ty chính thức đặt lại tên thương hiệu là Nike vào năm 1971, nhiều vận động viên điền kinh nổi tiếng sử dụng giày của hãng, giúp nâng gấp đôi lợi nhuận hàng năm. Sự kết nối giữa Knight và Bowerman với cộng đồng vận động viên điền kinh và chú trọng vào sản xuất sản phẩm chất lượng cao đã giúp Nike trở thành lựa chọn hàng đầu của các vận động viên chuyên nghiệp.


Ngày nay, Nike vẫn sử dụng hình ảnh của các vận động viên nổi tiếng như Kobe Bryant để bán sản phẩm.

Công ty tung ra mẫu giày Nike Cortez năm 1972 cùng với Thế vận hội Olypmics 1972 ở Munich và Knight chắc chắn rằng giày Nike sẽ trở thành lựa chọn hàng đầu của các vận động viên Olympics. Mẫu giày Cortez đa dạng về màu sắc và lần đầu tiên gắn logo “swoosh” của Nike, biến chúng trở thành một trong những mẫu giày sneaker có sức hấp dẫn cả về khía cạnh thời trang và chức năng.


Mẫu giày Nike Cortez

Nike tăng trưởng nhanh chóng trong suốt những năm 1970 và 1980. Doanh thu của công ty tăng từ 28,7 triệu USD năm 1972 lên 867 triệu USD năm 1983.


Mẫu giày Nike trong cửa hàng tại Santa Monica, California

Công ty tung ra mẫu giày Air Force 1 năm 1982. Đây là mẫu giày đầu tiên mang đặc điểm Nike Air - túi khí trong gót giày như miếng đệm và hỗ trợ vận động viên bóng rổ. Air Force 1 nhanh chóng trở thành một trong những mẫu giày sneaker phổ biến nhất và hàng triệu đôi được bán mỗi ngày.


Mẫu Air Force 1 hiện đại

Một trong những thành công lớn nhất của Knight là ký hợp đồng quảng cáo với Michael Jordan và tung ra mẫu Air Jordan - hiện là một trong những nhượng quyền giày sneaker thành công nhất mọi thời đại. Năm 1985, Nike ký hợp đồng với Jordan khi ngôi sao bóng rổ này đang trên con đường chinh phục NBA. Hợp đồng thời hạn 5 năm với trị giá 500.000 USD/năm - một con số chưa từng được nghe đến thời đó.


Michael Jordan

Air Jordan xuất hiện trong các cửa hàng với giá 65 USD/đôi vào tháng 3/1985 và đến tháng 5, doanh số bán mẫu giày này đạt 70 triệu USD, đưa doanh thu cả năm của mẫu giày này lên trên 100 triệu USD đến hết năm đó.


Nhưng khi doanh số bán của Nike bắt đầu sa sút vào giữa những năm 1980, Knight biết rằng công ty cần phải có sự đột phá lớn trong cách suy nghĩ. Sau đó, ông nhận thấy rằng dù Nike đang được bán cho những vận động viên hàng đầu, song phần lớn khách hàng là những người bình thường - phần lớn thậm chí không sử dụng giày Nike cho mục đích thể thao.

Knight thay đổi Nike từ công ty chuyên về sản phẩm (product-oriented) thành công ty chuyên về tiếp thị (marketing-oriented). Ông bắt đầu quan tâm đến khách hàng hàng ngày và rốt cuộc doanh số bán đã tăng trở lại. Đến cuối năm 1991, doanh số của hãng đạt trên 3 tỷ USD.

“Điều quan trọng nhất chúng tôi là là bán được sản phẩm. Tiếp thị kết nối toàn bộ tổ chức lại với nhau. Những yếu tố thiết kế và đặc điểm chức năng của bản thân sản phẩm là một phần trong quá trình tiếp thị”, Knight phát biểu trên Harvard Business Review năm 1992.

Tài năng tiếp thị và bán hàng của Knight bắt nguồn từ việc ông không chỉ tập trung vào việc bán giày; ông luôn luôn làm điều gì đó nhiều hơn thế. Trong một cuộc hội thảo ngày giữa những năm 1970, ông đã chỉ ra rằng điểm khác biệt quan trọng trong kế hoạch tiếp thị của ông là: Ông tuyên bố ông không tham gia vào lĩnh vực buôn bán giày - thay vào đó, ông đang tham gia vào hoạt động giải trí.


Phil Knight năm 1995.

Những năm 1990, Nike đối mặt với một trở ngại khác: Công ty vướng vào bê bối sử dụng công xưởng bóc lột sức lao động của công nhân và quy phạm lao động bất công. Khách hàng bắt đầu tẩy chay sản phẩm và phản đổi bên ngoài cửa hàng Nike, gây ra thảm họa kéo dài gần một thập kỷ cho thương hiệu này


Công nhân đóng gói giày tại một nhà máy Nike ở Tangerang, tỉnh Tây Java, Indonesia. Bằng việc tăng lương và minh bạch hơn về các quy phạm lao động, Nike đã dần lấy lại được hình ảnh.

Doanh số bán xuống thấp đến mức, năm 1984, Nike buộc phải bắt đầu giãn thợ và sa thải nhân viên. Một lần nữa, Knight - lúc này là CEO - phải vào cuộc và tạo ra sự thay đổi to lớn để cứu thương hiệu. Ông chấp nhận danh tiếng “ảm đạm” của công ty, tăng lương tối thiểu cho công nhân, cải thiện quy phạm lao động và đảm bảo các nhà xưởng luôn có không khí trong lành. Niềm tin của người tiêu dùng bắt đầu quay trở lại và Nike một lần nữa lại đứng trên đỉnh cao.


Thương hiệu vẫn duy trì được vị thế đỉnh cao của mình từ đó. Hiện Nike đang kiểm soát 62% thị phần giày thể thao tại Mỹ với doanh thu hàng năm đạt 30 tỷ USD.

Bản thân Knight cũng trở thành người giàu có: Tài sản của ông trị giá 21,6 tỷ USD và sở hữu 2 máy bay riêng - 2013 Gulfstream G6500 và 1999 Gulfstream G-V.

Sau 51 năm cống hiến cho Nike, ở tuổi 77, Knight đã công bố kế hoạch nghỉ hưu và rời khỏi vị trí chủ tịch.
~coppy~

Lịch sử thành công của adidas 

adidas nhìn lại quá khứ của mình, nhưng không dựa dẫm vào nó. Thay vào đó, hãng sử dụng khả năng của mình nhìn sâu vào hành vi khách hàng để tạo ra những sản phẩm hiện đại và sáng tạo.

Vào năm 1924, với sự yêu thích thể thao của mình, người thợ đóng giày Adi Dassler đã mở công ty sản xuất giày cùng với anh trai của mình, Rudolf. Cách thức của Adi có vẻ đơn giản: Ông quan sát các vận động viên, trò chuyện với họ về nhu cầu của họ, và sau đó thử nghiệm với nhiều phương thức mới để giải quyết vấn đề.

Trong khi Adi chú tâm vào sự cải tiến và sản phẩm thì Rudolf bận rộn bán hàng. Anh em họ thành công ngay từ khởi đầu. Vào năm 1925, Adi bắt đầu gửi hàng trăm bằng sáng chế cho những đôi giày thể thao. Đầu tiên là giày chạy với những đinh tán tay giả và giày đá bóng với đinh tán da.
Adi Dassler trong nhà máy giày của ông năm 1925. Ảnh: ullstein bild / Getty Images

Ba năm sau đó, Lina Radke đi đôi giày được làm bởi anh em nhà Dassler, giành Huy chương vàng Olympic 1928 trong nội dung chạy 800m nữ. Vào năm 1936, Jesse Owens giành 4 huy chương vàng cùng với giày của nhà Dassler. Vào năm 1938, công ty sản xuất 1,000 đôi giày cho các vận động viên mỗi ngày.

Tuy nhiên, sau Chiến tranh thế giới thứ hai, hai anh em đã tách doanh nghiệp hiện có. Rudolf thành lập Puma còn Adi cho ra mắt Adidas. Hai công ty này phản ánh rõ về mối quan tâm của hai anh em: Puma áp dụng mô hình kinh doanh thiên về bán hàng, còn Adidas thì quan tâm nhiều đến sản phẩm hơn.

Hai công ty này chiếm lĩnh thị trường giày thể thao toàn cầu cho đến khi có sự xuất hiện của Nike vào năm 1960


Đôi giày được Huy chương vàng Olympic 1928 Lina Radke đi trong nội dung chạy 800m nữ. Ảnh: adidas

Trong suốt cuộc đời của Adi Dassler, Adidas tiếp tục mở rộng và phát triển tới thị trường và môn thể thao mới. Nhưng công ty vẫn luôn luôn thống nhất với niềm tin của Dassler “chỉ những điều tốt nhất dành cho các vận động viên” và triết lý của ông về ngành thủ công nghiệp.

Các sản phẩm sau đó được thiết kế để sử dụng cho từng vận động viên nhưng có thể được sản xuất với quy mô công nghiệp. Dassler vẫn liên tục thử nghiệm. Ví dụ, World Cup tại Thụy Điển năm 1954, trái với sự kỳ vọng của mọi người thì đội Tây Đức đã giành chiến thắng. Đội này sử dụng mẫu giầy siêu nhẹ với đinh vít được xoáy vào đế giầy.

Ở thời điểm đó, giày đá bòng truyền thống nặng khoảng 500g (sẽ nặng gấp đôi khi bị ướt). Dassler quan sát thấy rằng trong một trận đấu 90 phút, trung bình thì chân của cầu thủ chỉ tiếp xúc với trái bóng khoảng 90 giây. Bởi thế, ông đã làm những đôi giày đá bóng nhẹ hơn (khoảng 350g) để phù hợp với việc chạy hơn.


Adi Dassler cầm đôi giày “Miracle of Berne” mà đội bóng Tây Đức đã đi năm 1954. Ảnh: adidas

Logo cỏ ba lá được tạo ra vào năm 1971, được sử dụng trong sản phẩm của adidas cho Olympic tại Munich năm 1972. Tuy nhiên, cuối những năm 1970s và đầu 1980s là những năm khó khăn của adidas. Nhân viên cảm thấy bối rối về định hướng của công ty, sự sáng tạo không có trọng tâm, chất lượng và thiết kế sản phẩm giảm, lợi nhuận bị ảnh hưởng và các cơ hội bị bỏ lỡ. Tuy nhiên, adidas đã có một bước tiến vào năm 1986 nhờ sự kết nối của nhóm hip hop Run-D.M.C. Nhóm này có album đỉnh cao là Raising Hell, với single “My adidas”.


"" style="box-sizing: border-box; border: 0px; vertical-align: bottom;">

 Chuyên mục Brands Chi tiếtLịch sử thành công của adidas  Lưu

 24/11/2015

 359 lượt xem

 0 thảo luận


  
inShare

adidas nhìn lại quá khứ của mình, nhưng không dựa dẫm vào nó. Thay vào đó, hãng sử dụng khả năng của mình nhìn sâu vào hành vi khách hàng để tạo ra những sản phẩm hiện đại và sáng tạo.

Vào năm 1924, với sự yêu thích thể thao của mình, người thợ đóng giày Adi Dassler đã mở công ty sản xuất giày cùng với anh trai của mình, Rudolf. Cách thức của Adi có vẻ đơn giản: Ông quan sát các vận động viên, trò chuyện với họ về nhu cầu của họ, và sau đó thử nghiệm với nhiều phương thức mới để giải quyết vấn đề.

Trong khi Adi chú tâm vào sự cải tiến và sản phẩm thì Rudolf bận rộn bán hàng. Anh em họ thành công ngay từ khởi đầu. Vào năm 1925, Adi bắt đầu gửi hàng trăm bằng sáng chế cho những đôi giày thể thao. Đầu tiên là giày chạy với những đinh tán tay giả và giày đá bóng với đinh tán da.

Adi Dassler trong nhà máy giày của ông năm 1925. Ảnh: ullstein bild / Getty Images

Ba năm sau đó, Lina Radke đi đôi giày được làm bởi anh em nhà Dassler, giành Huy chương vàng Olympic 1928 trong nội dung chạy 800m nữ. Vào năm 1936, Jesse Owens giành 4 huy chương vàng cùng với giày của nhà Dassler. Vào năm 1938, công ty sản xuất 1,000 đôi giày cho các vận động viên mỗi ngày.

Tuy nhiên, sau Chiến tranh thế giới thứ hai, hai anh em đã tách doanh nghiệp hiện có. Rudolf thành lập Puma còn Adi cho ra mắt Adidas. Hai công ty này phản ánh rõ về mối quan tâm của hai anh em: Puma áp dụng mô hình kinh doanh thiên về bán hàng, còn Adidas thì quan tâm nhiều đến sản phẩm hơn.

Hai công ty này chiếm lĩnh thị trường giày thể thao toàn cầu cho đến khi có sự xuất hiện của Nike vào năm 1960.

Đôi giày được Huy chương vàng Olympic 1928 Lina Radke đi trong nội dung chạy 800m nữ. Ảnh: adidas

Trong suốt cuộc đời của Adi Dassler, Adidas tiếp tục mở rộng và phát triển tới thị trường và môn thể thao mới. Nhưng công ty vẫn luôn luôn thống nhất với niềm tin của Dassler “chỉ những điều tốt nhất dành cho các vận động viên” và triết lý của ông về ngành thủ công nghiệp.

Các sản phẩm sau đó được thiết kế để sử dụng cho từng vận động viên nhưng có thể được sản xuất với quy mô công nghiệp. Dassler vẫn liên tục thử nghiệm. Ví dụ, World Cup tại Thụy Điển năm 1954, trái với sự kỳ vọng của mọi người thì đội Tây Đức đã giành chiến thắng. Đội này sử dụng mẫu giầy siêu nhẹ với đinh vít được xoáy vào đế giầy.

Ở thời điểm đó, giày đá bòng truyền thống nặng khoảng 500g (sẽ nặng gấp đôi khi bị ướt). Dassler quan sát thấy rằng trong một trận đấu 90 phút, trung bình thì chân của cầu thủ chỉ tiếp xúc với trái bóng khoảng 90 giây. Bởi thế, ông đã làm những đôi giày đá bóng nhẹ hơn (khoảng 350g) để phù hợp với việc chạy hơn.

Adi Dassler cầm đôi giày “Miracle of Berne” mà đội bóng Tây Đức đã đi năm 1954. Ảnh: adidas

Logo cỏ ba lá được tạo ra vào năm 1971, được sử dụng trong sản phẩm của adidas cho Olympic tại Munich năm 1972. Tuy nhiên, cuối những năm 1970s và đầu 1980s là những năm khó khăn của adidas. Nhân viên cảm thấy bối rối về định hướng của công ty, sự sáng tạo không có trọng tâm, chất lượng và thiết kế sản phẩm giảm, lợi nhuận bị ảnh hưởng và các cơ hội bị bỏ lỡ. Tuy nhiên, adidas đã có một bước tiến vào năm 1986 nhờ sự kết nối của nhóm hip hop Run-D.M.C. Nhóm này có album đỉnh cao là Raising Hell, với single “My adidas”.

Giày Superstar. Ảnh: adidas

Ở thời điểm quyết định của công ty vào năm 1989, CEO René Jäggi đã mời 2 người quản lý cũ của Nike, Peter Moore và Rob Strasser đến thăm adidas. Moore (ảnh dưới trái) nhớ lại buổi gặp đầu tiên đó. Họ được đưa đến một bảo tàng hiện vật nhỏ tại trụ sở chính của công ty. “Mất 5 phút để tôi nhận ra rằng họ đang có một mỏ vàng trong tay, nhưng thực sự họ không nhận ra điều đó,” Moore nói.

Các cựu quản lý của Nike đã nhìn ra điểm cốt lõi của công ty chính là cách tiếp cận sáng tạo của Adi Dassler- triết lý của ông về ngành thủ công nghiệp, cũng như sự gần gũi và thấu hiểu nhu cầu của các vận động viên. Moore và Strasser (ảnh dưới phải) đề nghị đổi mới cách tiếp cận của Dassler, và phát triển đong sản phẩm mới với tên gọi adidas Equipment.


Peter Moore và Rob Strasser. Ảnh: adidas

Moore và Strasser tạo ra quy tắc thương hiệu cho Equipment, dòng sản phẩm ra mắt năm 1991. Sau này nó được phát triển thành adidas Performance, nhấn mạnh vào chất lượng sản phẩm. Ví dụ, họ đặt các giới hạn về màu sắc, kích cỡ, vị trí của logo và thậm chí là màu sắc của chính đôi giày. Họ muốn người tiêu dùng chú trọng vào chất lượng sản phẩm, chứ không bị phân tâm bởi các yếu tố khác. Họ muốn sản phẩm thành người hùng, như cách mà Dassler từng làm.

“Mẫu này quay lại với những gì Dassler muốn làm suốt cuộc đời của ông là làm sao để tạo ra được những sản phẩm tốt nhất cho các vận động viên,” Moore nói. Sự kết nối này khiến cho cảm xúc thăng hoa, nhất là với những người đã từng làm việc với Dassler và lấy lại lòng tin từ nhân viên. Ngày nay, Performance đại diện cho cốt lõi của thương hiệu adidas và chiếm hơn 75% doanh thu bán hàng.


Đôi giày EQT 1991 thuộc dòng sản phẩm Equipment đầu tiên. Ảnh: adidas

adidas nhìn lại quá khứ của mình, nhưng không dựa dẫm vào nó. Thay vào đó, hãng sử dụng khả năng của mình nhìn sâu vào hành vi khách hàng để tạo ra những sản phẩm hiện đại và sáng tạo. Công ty cũng mở rộng cách nghĩ này vào quan hệ đối tác của mình, khuyến khích các đối tác tìm ra bản chất thương hiệu adidas và thúc đẩy nó phát triển hơn.

Ví dụ, các đối tác như Yohji Yamamoto và Stella McCartney đã khuyến khích các nhà thiết kế của adidas mạo hiểm hơn khi hướng tới đối tượng và kênh bán hàng mới của phân khúc thời trang cao cấp.

Như Steve Vincent, Phó chủ tịch cao cấp của adidas Future nói: “Đây là thách thức, làm những điều đột phá mà chưa có ai nhìn thấy hay dự kiến, nhưng vẫn cảm thấy chúng nên xuất phát từ thương hiệu này.” Ngày nay, các nhà quản lý, sáng tạo và thiết kế tại adidas nghiền ngẫm lịch sử công ty để xác định điều gì nên giữ hay nên bỏ. Họ quay lại những bài học trong quá khứ và thay đổi để phù hợp với nhu cầu của vận động viên và người tiêu dùng.

Kết quả đã chứng minh cho họ thấy: adidas đã chuyển mình từ một nhà sản xuất thua lỗ cuối những năm 1980s, đầu năm 1990s trở thành thương hiệu với quy mô 17,1 tỷ USD.


Đôi giày thiết kế bởi Stella McCartney năm 2014. Ảnh: adidas

~coppy~

Giới thiệu về thương hiệu đồng hồ: Panerai

Logo
Ông Guido Panerai
Hãng đồng hồ Official Panerai được biết đến rộng rãi trên thị trường, họ là một trong những tên tuổi lớn trong làng chế tác đồng hồ sang trọng và cao cấp thế giới. Công ty được thành lập ở thành phố Florence, thuộc đất nước Italia xinh đẹp và thanh lịch. Vào năm 1860, ông Guido Panerai, người sáng lập ra công ty đồng hồ đã bắt đầu triển khai những ý tưởng, những đổi mới khác nhau làm đa dạng hóa những các mẫu đồng hồ sang trọng của mình và trở thành một trong những hãng đồng hồ bán chạy nhất tại Châu Âu vào thời điểm bấy giờ. Ngay sau đó, công ty của ông Guido Panerai đã trở thành nhà cung cấp chính thức hàng đầu cho Hải quân Hoàng Gia Italia trong thời kì diễn ra chiến tranh thế giới lần thứ 2. Một số công nghệ tinh xảo của Panerai được áp dụng vào động cơ của những chiếc đồng hồ đeo tay lúc đó đều được trao tặng bằng sáng chế và sở hữu trí tuệ được thế giới công nhận. Cho đến ngày nay, thương hiệu Panerai hay được biết đến với một cái tên đầy đủ là Official Panerai, đã trở thành một thương hiệu đồng hồ cao cấp, sang trọng, chất lượng và có giá trị sưu tập rất cao. Nhiều ông chủ sở hữu những chiếc đồng hồ Panerai cho biết, Panerai được xem như là một thương hiệu đồng hồ tốt nhất trong dòng đồng hồ đeo tay giá trị tương đương.

Panerai, 1 lịch sử thú vị:

Panerai tên đầy đủ là Officine Panerai, đầu tiên ko phải là sản xuất đồng hồ,mà chuyên sản xuất những dụng cụ mang tính chính xác cao, như những la bàn, những dụng cụ đo đạt sự chính xác chuyên dùng cho máy bay khi cất cánh hoặc hạ cánh, hỗ trợ công cụ cho hải quân hoàng gia Ý(Royal Italian Navy).
Vào năm 1935, quân đội hoàng gia yêu câu Panerai làm 1 chiếc đồng hồ đặc biệt, chịu áp suất cao, xuống nước đc ở mức 100m, và phải nhìn rất rõ ở dưới nước, chỗ tồi nhất có thể.

Năm 1936, chiếc đồng hồ đầu tiên của Panerai ra đời, gọi tên là Radiomir 3646, dùng movement của Rolex

Mẫu đồng hồ của Official Panerai năm 1938

Panerai đặt tên dòng đầu tiên la Radiomir, lấy từ cụm từ chất Radium, một chất có thể tự sáng lên trong tối, và rất phổ biến trên mặt đồng hồ hiện nay, nhưng sau này, vì chất radium rất nguy hiểm đối với người tiếp xúc trực tiếp, có nghĩa là những người làm đồng hồ, nên hãng đã chuyển sang dùng chất Tritium. Có thể nói Panerai là hãng đầu tiên trên thế giới làm ra chiếc đồng hồ nhìn đc trong tối.


Hải quân Ý dùng Panerai trong Chiến Tranh Thế Giới Lần thứ II

Đến năm 1950, với mục đích chiến tranh, hải quân Ý đã yêu cầu Panerai làm chiếc đồng hồ với yêu cầu cao hơn, là case chắc chắn, xuống nước đc 300m. và chiếc Luminor đã ra đời:

Một số những chiếc đồng hồ nổi tiếng và phổ biến nhất trong bộ sưu tập đồng hồ của Official Panerai được chế tạo dựa trên nền tảng lịch sử rất vẻ vang của công ty. Chính điều này mang cũng đã mang đến cho khách hàng những cái nhìn vô cùng xác thực với những chiếc đồng hồ mang tính lịch sử kết hợp với công nghệ hiện đại của ngày nay. Những dòng đồng hồ nổi tiếng đó bao gồm Luminor, với tính năng chuyển động cơ học tay (hand’s movement), mặt sau trong suốt của chiếc đồng hồ dòng Luminor giúp tiện cho việc quan sát chuyển động của động cơ. Động cơ thông thường của những chiếc Luminor thường được làm bằng Titanium và thép với độ bền đặc biệt với khả năng chịu nước lên đến 400m, một con số vô cùng đáng nể. Những chiếc đồng hồ thuộc dòng Luminor đặc biệt rất linh hoạt và bền bỉ kèm với sự chính xác rất cao, rất phù hợp khi mang nó trên tay ở bất kì dịp lễ hay trang phục nào.

Hiện nay, công ty đồng hồ sang trọng cao cấp Panerai chú trọng vào khả năng kháng nước, đặc biệt là nước biển ở độ sâu lớn và trở thành những bộ sưu tập đồng hồ cho dân đi biển rất nổi bật mang tên Contemporary, ẩn trong mình một khả năng đó là pin duy trì hoạt động của đồng hồ ở mức tối ưu đến mức tuyệt vời. Một số dòng đồng hồ nằm trong bộ sưu tập của Official Panerai có khả năng lưu trữ năng lượng vô cùng tốt với thời lượng lên tới 42-56 giờ đồng hồ. Hầu hết Panerai đều sử dụng Titanium và thép cao cấp để lắp ráp những chiếc đồng hồ, nhưng với phiên bản đặc biệt Luminor Marina được chế tạo bởi vàng 18k, đây là một phiên bản có giới hạn về số lượng trên thế giới và một trong những điểm nổi bật nhất của chiếc đồng hồ này đó là những mảnh màu hồng nhẹ được ánh lên bởi khi có ánh sáng chiếu vào chiếc đồng hồ. Rất nhiều mẫu đồng hồ nằm trong bộ sưu tập Contemporary được đánh giá rất cao về tính thẩm mỹ và giá trị lịch sử nổi bật của nó.


Bộ sưu tập Vintage của Official Panerai

Bên trong Official Panerai được ẩn chưa rất nhiều những phiên bản đặc biệt, họ chỉ tung ra một vài mẫu mỗi năm, Panerai kiểm soát rất chặt chẽ những phiên bản giới hạn về số lượng và bảo vệ chặt chẽ quyền sở hữu độc quyền cho người sử dụng, Panerai chỉ có một số lượng có hạn những mẫu đồng hồ trưng bày vì thế đã có rất nhiều nhà sưu tập hay những nhà bán lẻ đồng hồ cao cấp trên toàn thế giới đã không ít lần thèm muốn được sở hữu những bộ sưu tập quý giá của Panerai. Khá nhiều những phiên bản đặc biệt trong quá khứ đều đang có sẵn những vẫn nằm trong list “Limited” của Official Panerai. Những chiếc đồng hồ này mang những giá trí sưu tập cực kì cao, nó tạo nên một sự bổ sung vô cùng hoàn hảo cho bất kì bộ sưu tập Panerai nào họ đang có.



Officine Panerai Ferrari California Flyback Chronograph

Những chiếc đồng hồ thuộc hai dòng đồng hồ được chúng tôi giới thiệu ở trên đều là những chiếc đồng hồ xuất sắc nhất của Panerai trong ngành công nghiệp đồng hồ sang trọng và cao cấp. Một trong những series nổi bật nhất hiện nay của Official Panerai đó là series Ferrari với hệ thống lịch vạn niên. Một mô hình năm 2011 với khả năng dự trữ năng lượng lên tới 3 ngày, một con số vô cùng đáng nể. Official Panerai luôn nhắm đến những yếu tố vô cùng quan trọng đó là sự thoải mái khi mang trên tay và sự linh hoạt bền bỉ. Với hai yếu tố đó, Official Panerai còn ngày càng khẳng định thương hiệu của mình trên thị trường nhờ chất lượng tuyệt vời về đồng hồ hay dịch vụ chăm sóc khách hàng của mình trên toàn thế giới, một cam kết gắn bó không rời với người tiêu dùng, chính nó đã biến Official Panerai trở thành một trong những công ty đồng hồ sang trọng cao cấp được biết đến rất rộng rãi trên thế giới.
~coppy~